rong 3 năm trở lại đây, xe gầm cao cỡ nhỏ là nơi có số lượng sản phẩm mới ra mắt nhiều nhất trên thị trường. Sự xuất hiện đông đảo của những mẫu xe này tạo nên cuộc cạnh tranh sôi động giữa các hãng và người dùng.
Đa dạng nguồn cung
Khoảng giá đan xen nhau của các mẫu crossover từ A+ đến B+Đơn vị: triệu đồng (Riêng Mazda CX-5 ở phân khúc C)4584585795796386385635636466467197197407407657658718717497497107108308309999999559558588588598591 2991 2994584585195195385385635635695695995996406406756756996997097097107107307307497497607607897897897891 0991 099VinFast VF 5Kia SonetMG ZSToyota RaizeMazda CX-3Kia SeltosHyundai CretaVinFast VF 6Honda HR-VMazda CX-30VinFast VF e34Toyota Yaris CrossMazda CX-5 (*)Toyota Corolla CrossNissan KicksPeugeot 2008Volkswagen T-Cross40050060070080090010001100120013001400VnExpressMG ZS● triệu đồng: 538 - 638
Trải dài trên tầm giá từ cận dưới khoảng 450 triệu tới cận trên khoảng gần 900 triệu, phân khúc xe cỡ nhỏ nói chung (từ A+ đến B+) hiện có 16 sản phẩm cho người dùng lựa chọn. Trong đó, nhóm A+ có 3 mẫu, B là 9 mẫu và B+ (hoặc C-) là 4 mẫu. Tính chung toàn thị trường, chỉ có nhóm CUV cỡ C (10 xe) sở hữu số lượng sản phẩm nhiều hơn cỡ B.
"Xe crossover cỡ nhỏ được ưa chuộng bởi sở hữu những điểm mạnh về giá bán cũng như thiết kế hợp xu hướng", Tô Yô Ta, cựu đào tạo bán hàng của một đại lý ôtô Nhật và hiện kinh doanh xe cũ ở TP HCM, cho biết. "Điều này giải thích vì sao ngày càng nhiều hãng ra mắt xe ở phân khúc này".
Theo ông Tô, thị hiếu người dùng vài năm gần đây dần chuyển sang chuộng xe gầm cao. Với những khách hàng phổ thông, thay vì sedan cỡ B truyền thống, họ chọn những mẫu xe CUV cỡ B với giá bán tương đương hoặc nhỉnh hơn để đổi lấy thiết kế xe khỏe khoắn, gầm cao, đa dụng và đặc biệt nhiều công nghệ hơn.
Những mẫu CUV cỡ B trải dài trong tầm giá 600-850 triệu đồng, riêng mẫu T-Cross được hãng định vị cận sang nên giá bán vượt tầm 1 tỷ đồng. Tùy vào định hướng sản phẩm của mỗi hãng, giá bán chênh lệch đến hàng trăm triệu đồng.
Ví dụ như hai mẫu xe lắp ráp trong nước và bán chạy nhất phân khúc là Kia Seltos và Hyundai Creta chênh lệch nhau 30-40 triệu đồng. Nhưng cũng hai mẫu này so với Honda HR-V, Nissan Kicks hay Toyota Yaris Cross, khoảng cách giá là 100-150 triệu đồng tùy phiên bản. Không chỉ giá bán, triết lý làm sản phẩm của xe Hàn và xe Nhật cũng khác nhau.
Hyundai Creta, xe bán chạy nhất phân khúc cỡ B, lăn bánh tại Hà Nội. Ảnh: Lương Dũng
Các hãng Hàn nhờ lợi thế lắp ráp trong nước và linh hoạt trong việc thiết lập cấu hình xe, định giá ở mức thấp hơn xe Nhật. Điều này giúp những Seltos, Creta chiếm lĩnh thị phần doanh số. Trong khi các hãng Nhật như Toyota, Nissan, Honda, cách định vị sản phẩm theo hướng đề cao công nghệ và an toàn. Cùng với nguồn gốc nhập khẩu, giá các mẫu như HR-V, Kicks hay Yaris Cross đều trên xe Hàn một bậc.
Lợi thế trong tầm giá dễ tiếp cận khách hàng của các xe ở phân khúc này không phải tuyệt đối. Bởi ở đồ thị giá phía trên, khi Mazda CX-5 giảm giá sâu ở phiên bản mới, cận dưới của CX-5 đã thấp hơn cả bản trung/cao của một số xe cỡ dưới. Trong khi đó CX-5 có lợi thế của một sản phẩm nằm ở phân khúc trên. Bởi vậy, không chỉ nhìn các đối thủ, mỗi hãng xe có sản phẩm trong phân khúc này, còn phải nhìn cả CX-5.
Cuộc đua chưa dừng lại
Ưa chuộng xe gầm cao là một xu hướng của ngành ôtô thế giới, thị trường Việt Nam cũng vậy. Nhưng ảnh hưởng của thói quen tiêu dùng này chỉ thực sự rõ nét khoảng 3 năm trở lại đây, khi phân khúc xe truyền thống nhất của ngành xe trong nước là sedan cỡ B dần suy giảm vị thế thống lĩnh doanh số thị trường.
Trong 2022, nhóm xe gầm cao cỡ nhỏ nói chung bán hơn 73.600 xe, tăng gần 200% so với 2020, mức cao nhất khi xét cùng những phân khúc khác. Lượng bán này áp sát con số 75.856 của sedan hạng B (tăng nhẹ 3% cùng giai đoạn).